Phân loại và tiến hóa Linh dương đầu bò đen

Danh pháp hai phần của linh dương đầu bò đen là Connochaetes gnou. Loài được xếp vào chi Connochaetes, họ Bovidae và được mô tả lần đầu bởi nhà động vật học người Đức, Eberhard August Wilhelm von Zimmermann năm 1780.[3] Ông mô tả dựa trên một bài báo được viết bởi nhà triết học tự nhiên Jean-Nicolas-Sébastien Allamand năm 1776.[2] Danh pháp chi Connochaetes xuất phát từ tiếng Hy Lạp là κόννος, kónnos, "beard" (râu), và χαίτη, khaítē, "flowing hair" (mái tóc), "mane" (bờm).[4] Danh pháp loài "gnou" bắt nguồn từ tên theo tiếng Khoikhoi dành cho nhiều loài động vật, gnou.[5] Tên phổ biến "gnu" cũng được cho có nguồn gốc từ tên theo tiếng Hottentot là T'gnu, nó đề cập đến tiếng kêu lặp đi lặp lại "ge-nu" của con đực trong mùa giao phối.[2] Linh dương đầu bò đen lần đầu tiên được phát hiện ở miền phía Bắc của Nam Phi trong những năm 1800.[6]

Linh dương đầu bò đen hiện tại được bao gồm trong chi tương tự với linh dương đầu bò xanh (Connochaetes taurinus). Điều này không phải luôn như vậy và một thời gian sau này được xếp dưới một chi riêng biệt do loài này làm chủ, Gorgon.[7] Dòng dõi linh dương đầu bò đen dường như phân tách từ linh dương đầu bò xanh vào thời gian từ giữa đến cuối thế Pleistocene, trở thành loài riêng biệt khoảng một triệu năm về trước.[8] Sự tiến hóa này khá gần trong một niên đại địa chất.[9]

Đặc điểm cần thiết cho tập tính bảo vệ lãnh thổ như cặp sừng và hộp sọ rộng của linh dương đầu bò đen hiện đại, được tìm thấy trên hóa thạch tổ tiên của loài.[8] Hóa thạch phát hiện sớm nhất là đá trầm tích ở Cornelia tại Orange Free State có niên đại khoảng tám trăm ngàn năm.[10] Hóa thạch cũng được báo cáo từ trầm tích sông Vaal, mặc dù không rõ ràng dù chúng có cổ xưa như những gì tìm được tại Cornelia hay không. Sừng của linh dương đầu bò đen phát hiện được tại những đụn cát gần Hermanus, Nam Phi. Đây là phạm vi vượt xa những gì ghi nhận được về loài này dẫn đến đề xuất cho rằng số con vật có thể di cư đến khu vực này từ Karoo.[2]

Phép lai

Linh dương đầu bò đen được cho lai giống với họ hàng phân loại gần, linh dương đầu bò xanh. Linh dương đầu bò đen đực giao phối với linh dương đầu bò xanh cái và ngược lại.[11] Sự khác biệt hành vi xã hội và môi trường sống trong lịch sử đã ngăn cản lai ghép giữa 2 loài, tuy nhiên lai có thể xảy ra khi cả hai đều bị giới hạn phạm vi cùng khu vực. Kết quả con lai thường tốt giống. Một nghiên cứu về động vật lai tại khu bảo tồn thiên nhiên Spioenkop Dam ở Nam Phi cho biết có nhiều bất lợi dị thường liên quan đến răng, sừng và xương khớp nối trong hộp sọ.[12] Một nghiên cứu khác báo cáo sự gia tăng kích thước con lai so với một trong hai bố mẹ nó. Ở vài con vật khoang thính giác bị biến dạng cao. Ở số khác xương quayxương trụ được hợp nhất.[13]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Linh dương đầu bò đen http://www.merriam-webster.com/dictionary/gnu http://www.ultimateungulate.com/Artiodactyla/Conno... http://www.departments.bucknell.edu/biology/resour... http://www.departments.bucknell.edu/biology/resour... http://placentation.ucsd.edu/gnu.html http://animaldiversity.ummz.umich.edu/accounts/Con... http://www.itis.gov/servlet/SingleRpt/SingleRpt?se... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/1795096 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/22071196 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/8765071